Thứ Ba, 14 tháng 8, 2012
Thứ Tư, 8 tháng 8, 2012
LÊN KẾ HOẠCH THIỆN NGUYỆN CUỐI THÁNG 10.2012
Start: | Oct 26, '12 05:00a |
End: | Oct 28, '12 10:00p |
ĐOÀN TUỆ TÂM LÊN KẾ HOẠCH THIỆN NGUYỆN CUỐI THÁNG 10.2012 - xã HỮU ĐỨC, huyện NINH PHƯỚC, tỉnh NINH THUẬN - VỀ VỚI NGƯỜI DÂN TỘC CHĂM NINH THUẬN.
Chủ Nhật, 5 tháng 8, 2012
THIỆN NGUYỆN TUỆ TÂM VỀ CÀ MAU - xã Tân Hải, Phú Tân ngày 04.8.2012
Xin cảm ơn tất cả các anh chị, các bạn.
Xin cảm ơn cuộc sống đã trao tặng cho chúng ta
những khoảnh khắc chân thành của Tình Bạn.
ĐOÀN THIỆN NGUYỆN TUỆ TÂM
Chủ Nhật, 29 tháng 7, 2012
sala
SA LA LONG THỌ - SONG LONG THỦ - SONG LONG THỌ
Dược Sĩ Trần Việt Hưng

Tên khoa học và các tên khác:Couroupita guianensis thuộc họ thực vật Lecythidaceae.Tên Anh- Mỹ: Cannonball tree; Ayahuma, Foul coconut treePháp: Boulet de canon.Tây Ban Nha: bola de canõn, coco de mono, Abrico de MacacoTên Tamil (Ấn):Nagalinga pushpam.Tiếng Hindi: Shiv Kamal (cây), Shiva linga (Hoa).Tại Nam Mỹ: Ba Tây: castanha de macaco (monkey nut) . Columbia: maraco. Venezuela: coco de mono, mamey hediondo.Tại Bắc VN cây còn được gọi là cây Hàm rồng (có lẽ theo hình dáng của nhụy hoa). Giới chơi cây cảnh có tên là Ngọc Kỳ Lân (có thể do hình dạng của cả chùm hoa.
Cư sĩ Tuệ Lạc, đã theo học nhiều năm tại ĐH Nalenda (Ân Độ) giải thích:
Couroupita guainensis: Cây Song long thủ , tiếng Phạn gọi là Sala. Cây này cao lớn, viền lá không răng và có hoa từ nhánh và thân thành những chùm, trong mỗi chùm có nhiều cặp hoa khi nở trông giống như đầu rồng (Long thủ). Ngôn ngữ Hán Việt gọi là cây Song long thủ. Nhưng để ngắn gọn, dễ nhớ hơn, ngưòi ta bỏ chữ cây và chữ thủ, thêm vào chữ thọ để trở thành Song long thọ (Vườn Dươc Thảo- Tương Giang Tử ngày 14 tháng 3, 2012)Đặc điểm thực vật học:Cây thuộc loại thân mộc lớn, lá xanh quanh năm. Cây cao đến 35m Thân thẳng, phân cành sớm; vỏ xốp và mềm; tán rộng nhưng thưa. Là thuôn bàu dục dài hay hình giáo màu xanh nhạt. Cuống lá dài 0.5-3 cm. Phiến lá bóng, cứng, dài 15-25 cm. Mép nguyên hay có khía răng nhỏ, mọc thành chùm ở thân hay cành.Cụm hoa dạng chùm mập, dài (có khi đến 1m), uốn cong ra và tập trung ngay trên thân hay cành già. Hoa lớn, lưỡng trắc, thơm, màu sặc sỡ. Hoa có 6 cánh đài dày ở gốc, dạng bàu dục nhọn. Cánh tràng lõm, cong, nở ra tròn đều, màu đỏ vàng, có khi màu cam, gốc màu đỏ tím hay màu vàng. Nhị nhiều xếp sát nhau kín cả họng hoa.Quả thuộc loại phì quả, hình cầu lớn, đường kính 10-25 cm, nặng đến 1.5 kg., phần cùi vỏ nặng chừng 0.5 kg, có lá đài còn lại ở giữa, màu đỏ nhạt trong chứa từ 200-300 hạt (Quả nhỏ nhất chứa khoảng 65 hạt, nhưng quả to nhất có thể chứa đến 550 hạt) Quả rụng khi chin. Hạt dính trên ruột quả, ruột đổi thành màu xanh nhạt khi tiếp xúc với không khí. Quả có mùi hôi khi chín. Cây rất sai quả, mỗi cây có từ 50 đến 150 quả.Hoa không có mật, nhưng có mùi thơm ngọt ngào vào buổi sáng sớm, hấp dẫn được ong thợ (loài Xylocopa) để giúp thụ phấn. Loài ong lớn màu đen, lưng gù này khi chui vào hoa sẽ mang phấn hoa trên thân vả chuyển phấn khi chui vào hoa khác.
Cây được xem là có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới Nam Mỹ (khu vực Amazone) , và có thể từ Ấn Độ, Thái.Tại Hoa Kỳ, cây có thể trồng được ở Florida (một cây hiện ở Fairchild Tropical Botanical Garden)Tại Việt Nam cây thường được trồng trong khuôn viên các chùa Phật giáo như tại Thiền viện Thường Chiếu (Long Thành), Chùa Vĩnh Nghiêm (Sài Gòn), Chùa Tây Tạng (Bình Dương). Ngoài ra cũng có tại Thảo Cầm Viên Sài Gòn, khu du lịch Bình Quới - Thanh Đa.Thành phần hóa học:Hoa chứa:- Tinh dầu dễ bay hơi (4 loại) gồm phần chính là Eugenol (41,6 %), Linalool (14.9 %), Farnesol (10.3%), Nerol (9.5%) (Journal of Essential Oils Research Số 7-1995)- Flavonoids: 2',4'-dihydroxy-6'-methoxy-3',5'-dimethyl chalcone ; 7-hydroxy 5-methoxy-6,8-dimethyl flavonone . Kaempherol, Rutin.- Alkaloids như isatin, indirubin, couroupitine- Chuyển hóa chất loại saponines như Hopanes, loại indolo quinazoline như Tryptanthrin- Sterols như Stigmasterol
- Hợp chất loại phenolicTheo TK Lim (Edible Medicinal and Non medicinal Plants. Vol 3 (Fruits):Trong phần 'nạc' của Quả có các chất đường, gôm, các acid hữu cơ như malic, citric, tartaric acid. Ngoài ra còn có citric hydrazid, vinalic hydrazid và capric acid.Hạt chứa 32% chất dầu béo và 19 % chất đạm.Dầu ép từ hạt có các chỉ số:- Iodine: 126.1- Sà phòng hóa (Saponification): 181.7- Oxide: 0.8- Acid: 2.4Thành phần acid béo trong dầu gồm phần lớn là linoleic acid (81.5 %), palmitic (6.3 %), stearic (3.4), oleic (3.3), capric (1.5), palmitoleic (1), myristic (1.2).Các nghiên cứu dược học về Couroupita guainensis:
Hoạt tinh làm lành vết thương và kháng sinh:Dịch chiết toàn cây (vỏ thân, lá, hoa và quả) Couroupita guainensis bằng ethanol khi thử trên chuột cho thấy:Có hoạt tính giúp vết thương mau lành bằng cách thu hẹp diện tích vết thương và gia tăng độ căng của da. Thuốc mỡ Nitrofurazone được dùng làm thuốc đối chứng.Sự tạo mô tế bào biểu bì xẩy ra trong vòng 15 ngày sau khi thoa dịch chiết, nồng độ hydroxyproline phù hợp với diện tích vết thương.Dịch chiết có hoạt tính kháng sinh trên các vi khuẩn Gram (+) như Staphylococcus aureus và Gram (-) như E. coli, Pseudomonas aeruginosa, Klebsiella pneumoniae. Hoạt tính kháng sinh được so sánh với erythromycin và tetracyclin.
(Pharmacologyonline, Vol 3, p.269-281 (2007)
Khả năng chống oxy-hóa (antioxidant):Khả năng chống oxy-hóa của cây Đầu Lân đã được nghiên cứu khá nhiều và từng bộ phận của cây đã được thử nghiệm:Hoa và Lá:Nghiên cứu tại Khoa Dược, Viện nghiên cứu Dược khoa Rahul, Chirala, Andrapradesh (Ấn Độ) ghi nhận: Dịch chiết từ hoa và từ lá của Couroupita guianensis bằng ethanol co hoạt tinh thu nhặt các gốc tự do, các anion superoxide (thử nghiệm dùng men xanthine oxidase, có vitamine C làm đối chứng), thu nhặt các gốc hydroxyl (thử nghiệm trên sự phân hủy desoxyribose, dùng quercetin để so sánh).Trong thử nghiệm Superoxide: các liều IC50 của dịch chiết từ hoa là 318.13 và từ lá là 138.39 microg/ml trong khi đó của Vitamin C đôi chứng là 92.46.
Trong thử nghiệm thu nhặt các gốc hydroxyl: các liều IC50 củ hoa là 66.3, lá là 37.34 microg/ml, trong khi đó của quercetin là 24.5 (International Journal of Phytopharmacy Research Số 3-2012)- Khả năng kích thích sự sinh sản của các mô tế bào sợi của da:Dịch chiết từ nước và alcohol từ lá có các hoạt tính tạo sự bội sinh các tế bào fibroblast (HCF) của da, giúp hấp thu các tia cực tím (UV) đồng thời có khả năng chống oxy hóa. Khả năng chống oxy-hóa được đánh giá bằng dùng thử nghiệm hoạt tính oxyhóa của linoleic acid.(Natural Products Research Số 4/2012). Nghiên cứu được thực hiện tại Department of R&D, CarOi'Line Cosmetica SL, Pontereas, Tây Ban Nha, với triển vọng dùng lá Đầu Lân trong công nghiệp mỹ phẩm.- Khả năng chống đau và chống sưng:Khả năng chống đau của dịch chiết bằng ethanol từ lá đã được nghiên cứu tại Universudade Federal do Rio de Janeiro (Ba Tây).Thử nghiệm được thực hiện trên chuột qua các test gây co quắp bằng acid acetic, cử động của đuôi chuột và phản ứng của chuột khi để trên dĩa hơ nóng. Chuột đối chứng được 'chích trước' bằng atropine, mecamylamine và naloxone.Kết quả ghi nhận, dịch chiết bằng ethanol từ lá Đầu Lân có các khả năng chống đau và chống sưng, hoạt tinh này được trung chuyển qua các hệ thống opiod và cholinergic (Journal of Ethnopharmacology Số 127/2010)- Khả năng chống trầm cảm (depression) và giải trừ âu lo:Thử nghiệm tại ĐH Mumbay (Ấn độ) trên chuột albino ghi nhận dịch chiết từ lá bằng benzene có hoạt tinh chống trầm cảm khi dùng các test đo lường phản ứng của chuột như:Test chuột bị treo bằng đuôi (Tail suspension test): Chuột bị treo bằng cách kẹp đuôi, để đầu cao 5cm cách đáy hộp, trong 6 phút, khi thả xuống chuột thường bất động. Trong test này, chuột dùng dịch chiết có thời gian bất động ngắn hơn, hoạt tính tương tư như imipramine.Test chuột phải cố bơi (Despair swim test): Chuột bị thả vào bình thủy tinh đường kính 12 cm, cao 20cm, chứa nước đến mức 8 cm, ở nhiệt độ 24-25 độ C, trong 6 phút. Chuột sẽ gần như bất động sau khi cố bơi. Trong test này, thời gian bất động của chuột cho dùng dịch chiết cũng ngắn lại.- Hoạt tinh diệt giun, ký sinh trùng:Dịch chiết bằng chloroforme, acetone và ethanol từ hoa có hoạt tinh diệt giun Pheretima posthuma. Dịch chiết bằng ethanol mạnh nhất, có thể so sánh với piperazine citrate.(Philippine Alernative Medicine)Các phương thức sử dụng trong dân gian:Dược học Ayurvedic dùng cây đầu lân trong nhiều thuốc chữa nhiều bệnh khac nhau như sưng bao tử, ghẻ ngứa, trĩ chảy máu, kiết lỵ, vết thương do bọ cạp chích.
Một số bộ phận của cây được dùng làm thuốc:- Nước ép từ lá dùng trị các bệnh ngoài da; lá non dùng trị đau răng.- Ruột nhão của quả dùng trị vết thương lở loét ngoài da- Hoa dùng trị cảm lạnh, đầy hơi trong bao tử. Hoa phơi khô dùng trị tiêu chảy.- Vỏ của quả, sau khi phơi khô được dùng làm dụng cụ chứa đựng khi làm bếp.
Gỗ cành và thân dùng làm nhang.Phần thịt nhão bên trong quả được dùng tại Nam Mỹ làm thực phẩm nuôi gia cầm như gà tây, gà-vịt và heo.
Hoa được dùng trong kỹ nghệ hương liệu và mỹ phẩmTại Ấn Độ, một chế phẩm dùng để rửa tay thay thế cho sà phòng, dùng tại các bệnh viện, trạm y tế địa phương, pha chế bằng cách phối hợp dịch chiết từ lá của các cây Terminalia catappa (Bàng Biển), Couroupita guainansis (Đầu Lân) và vỏ cùi quả của Garcinia indica (Bùa).Hỗn hợp các dược thảo (10 gram chiết bằng methanol/nước 9:1) được pha thêm lauryl sulfate. Thử nghiệm ghi nhận chế phẩm rất hữu hiệu diệt được các vi khuẩn Staphylococcus aureus, Pseudomonas aeruginosa.khi so sánh với các loại savon sát trùng khác (Natural Product Radiance Số 7-2008)**********
Tài liệu sử dụng:The New York Botanical Garden: Lecythidaceae PagesPhilippine Medicinal Plants: Cannonball treeMedicinal Plants of India (GV Satyavati)Forest and Trees Associated with Lord Buddha (Basanta Bidari)Vài dòng giới thiệu về cây Sala trong Phạn ngữ (TS Huệ Dân)
Thứ Năm, 19 tháng 7, 2012
Thứ Hai, 16 tháng 7, 2012
Thứ Bảy, 16 tháng 6, 2012
THẮT LƯNG DÀI RA, CUỘC ĐỜI NGẮN LẠI
THẮT LƯNG DÀI RA, CUỘC ĐỜI NGẮN LẠI
PGS.TS. Nguyễn Hữu Đức
Hình ảnh đức Phật Di Lặc đã in đậm trong tâm tưởng nhiều người trong chúng ta. Đó là hình ảnh một vị sư to béo đẫy đà, mặc y áo không cúc, thường ngồi chễm chệ phanh ngực, hoặc đứng hiên ngang khoe cái bụng to tròn, mặt mày rạng rỡ và đặc biệt là nụ cười luôn nở trên miệng, và vây quanh là đám trẻ vui đùa thỏa thích. Hình ảnh này khiến cho ai nhìn thấy cũng đều cảm thấy hoan hỷ, vui thích, có cảm tưởng như lúc nào cũng nghe được tiếng cười ha hả vang động của ngài. Đó là nụ cười của Từ Bi, của Hỷ Xả, vô cùng cao quý, có thể làm tiêu tan hết mọi thù hận hờn ghét, làm tan biến mọi khổ đau phiền não trong lòng dạ con người. Đúng là: "Hàm nhan vi tiếu, tiếu thế gian nan tiếu chi nhân" (dịch nghĩa: Miệng nở nụ cười mỉm với những điều mà người đời khó có thể mỉm cười được). Tuy nhiên, với thân hình đẫy đà, bụng to quá cỡ vẽ trong tranh về ngài thì ta nên xem đó là hình tượng ví von về tấm lòng vị tha thương người vĩ đại. Như câu thơ đã ví von: "Đại đỗ năng dung, dung thế gian nan dung chi sự (dịch nghĩa: Cái bụng lớn có thể dung chứa những việc mà người đời không dung chứa được). Chứ không nên xem đó là đặc trưng vốn có của "sức khỏe" mà tìm cách ăn uống sao cho giống như vậy.
Đối với khá nhiều người, "có sức khỏe" đồng nghĩa với "có thân hình phương phi, tròn trịa", đặc biệt đối với nam giới thường tự hào trời cho "tốt bụng", thực chất là béo bụng, tức bụng to hơn người thường là tốt. Thật ra mập mạp không hẳn là có sức khỏe tốt và béo bụng, tai hại thay là dấu hiệu có thể "trông mặt mà bắt hình dong" giúp nghi ngờ đương sự đang bị một quá trình bệnh lý gọi là "hội chứng chuyển hóa" (HCCH). Trong những năm gần đây, HCCH đã trở nên quen thuộc và là mối quan tâm hàng đầu của các thầy thuốc vì HCCH sẽ dẫn đến bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) týp 2 và những bệnh do vữa xơ động mạch đóng vai trò chính (như bệnh mạch vành, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não). HCCH còn được gọi một số tên khác như hội chứng kháng insulin, hội chứng Reaven, hội chứng X, đặc biệt có tên gọi nói lên sự nguy hại phải đề cao cảnh giác là "tứ chứng chết người". Gọi là tứ chứng chết người là vì có 4 chứng nếu không điều chỉnh cải thiện sẽ đưa đến sức khỏe bị tổn hại nghiệm trọng, có thể tử vong như chơi, đó là "béo phì thể bụng tức béo bụng, huyết áp cao, đường huyết cao, rối loạn mỡ trong máu". Trong tứ chứng thì béo bụng có thể nhìn bề ngoài là biết, còn 3 chứng còn lại phải có thiết bị đo (như đo huyết áp, đo đường huyết) và xét nghiệm máu. Đặc biệt, nhiều nhà y học nhấn mạnh vai trò của béo bụng xem đó đóng vai trò chính, là trung tâm của 4 biểu hiện của HCCH. Người ta đã thống kê, trung bình có 20% số người ở độ tuổi trung niên bị HCCH và tỷ lệ này có xu hướng ngày càng tăng.

Làm thế nào biết được bị HCCH?
Dựa vào bảng tiêu chuẩn chẩn đoán HCCH dành cho người châu Á, người được xem là bị HCCH nếu mắc 3 hoặc nhiều hơn trong 5 tiêu chuẩn sau:
Đo vòng eo: được xem là béo bụng khi nam có vòng eo lớn hơn 90 cm, nữ lớn hơn 80 cm.
Đo huyết áp: lớn hơn hay bằng (≥)130/85 mmHg.
Đo đường huyết glucose lúc đói: ≥ 6,1mmol/l (≥110 mg/dl).
Đo mỡ trong máu: Có 2 tiêu chuẩn là:
triglycerid ≥ 1,7mmol/l (≥ 150 mg/dl) và
HDL-cholesterol nhỏ hơn (<) 1mmol/l ( < 40 mg/dl) ở nam, <1,3 mmol/l) (<50 mg/dl) ở nữ.
Lưu ý có một số tiêu chuẩn ở nam khác với nữ.
Người có huyết áp 130/85 mmHg, đường huyết lúc đói bằng 6,1 mmol/l, triglycerid bằng 1,7 mmol/l là người chưa bị bệnh cao huyết áp, chưa bị đái tháo đường (ĐTĐ), chưa bị tăng mỡ trong máu thật sự nhưng có thể đã bị HCCH. Như trên đã nói, béo bụng là dễ " bắt hình dong" nhất, cho nên khi đo vòng bụng thấy vòng eo có vấn đề, hãy đi đo các tiêu chuẩn còn lại để xác định là có bị HCCH hay không, hầu khống chế bệnh tật.
HCCH sẽ dẫn đến hậu quả gì?
HCCH nếu không kiểm soát hay trị liệu sẽ dẫn đến 2 bệnh gây ảnh hưởng rất nặng nề là bệnh tim mạch do xơ vữa động mạch và bệnh ĐTĐ týp 2 . Người bị HCCH có nguy cơ chết vì bệnh tim mạch vành cao gấp 3-4 lần so với người không bị. Người phạm phải 4 trong 5 tiêu chuẩn của HCCH có nguy cơ diễn biến thành ĐTĐ týp 2 gấp 24 lần so với người không phạm.
Một điều rất may mắn là HCCH có thể được khống chế bằng cách thay đổi lối sống, điều chỉnh chế độ ăn uống, tăng cường hoạt động thể lực và có khi phải dùng thuốc. Trong đó, việc điều chỉnh cân nặng về mức hợp lý đóng vai trò then chốt. Nên ăn uống điều độ, vừa đủ, tránh ăn no, tránh các chất béo, tăng cường ăn cá thay vì ăn nhiều thịt, ăn nhiều rau xanh, trái cây (rõ ràng để phòng chống HCCH, ăn chay đúng cách là tốt nhất). Ăn vừa đủ chất bột, không dùng đường tinh luyện, hạn chế tối đa ăn bánh kẹo ngọt, hạn chế ăn các loại quả có độ đường cao.
Người bị HCCH cần tránh cuộc sống thụ động bằng cách tập luyện rèn luyện thể lực tốt nhằm giải quyết vấn đề béo bụng do thừa do thừa cân, béo phì. Nếu giảm được 1cm vòng eo, bạn đã giảm được 7% nguy cơ bị bệnh ĐTĐ týp 2. Người ta ghi nhận chế độ vận động rèn luyện thể lực có giúp cải thiện tình trạng kháng insulin (insulin nhạy cảm tức được sử dụng tốt hơn sẽ có tác dụng kiểm soát đường huyết tốt hơn) và cải thiện tình trạng rối loạn mỡ trong máu (thể dục làm tăng HDL-cholesterol là cholesterol tốt).
Bị HCCH có phải dùng thuốc không?
Bạn cần phải đi khám bác sĩ để được cần dùng thuốc để điều trị HCCH hay không
Người bị HCCH nếu bị béo phì quá đáng có khi phải dùng thuốc giảm cân (nếu BMI lớn hơn 30kg/m2 trước đây phải dùng một trong hai thuốc sibutramin và orlistat, orlistat thường được chọn do sibutramin có thể làm tăng huyết áp, và nay thì sibutramin đã bị cấm).
Tùy theo tình trạng của người bị HCCH, bác sĩ sẽ cân nhắc việc lựa chọn thuốc thích hợp. Để hạ huyết áp, bác sĩ thường chọn một trong những thuốc thuộc nhóm ức chế men chuyển, đối kháng thụ thể angiotensin II hoặc chẹn kênh calci vì các thuốc này ít gây tệ hơn tình trạng kháng insulin gây ĐTĐ. Để trị rối loạn mỡ trong máu, bác sĩ thường chọn hoặc thuốc nhóm statin hoặc fibrat hoặc niacin. Đối với tình trạng đường huyết hơi cao đến mức giới hạn các nhà điều trị tán dương việc thay đổi lối sống nhằm cải thiện chứ không ủng hộ dùng thuốc hạ đường huyết cho người bị HCCH nhưng chưa thật sự bị ĐTĐ týp 2.
Nên chăng phải cảnh giác cao độ đối với HCCH?
Nếu đã thấm nhuần phương châm "phòng bệnh hơn chữa bệnh", những ai có nguy cơ, đặc biệt đối với người đã ở ngưỡng "đón gió heo may về" cần phải cảnh giác cao độ HCCH. Ta nên đi khám, làm xét nghiệm để biết mình đã phạm 3 hoặc hơn trong 5 tiêu chuẩn chẩn đoán HCCH kể ở trên hay chưa. Nếu phạm, ta cần tham khảo ý kiến bác sĩ để điều trị HCCH kịp thời để không hối tiếc bị mắc hai bệnh luôn gây tổn thất nghiêm trọng là bệnh tim mạch do xơ vữa động mạch vành và ĐTĐ týp 2. Nên lưu ý, nếp sống lành mạnh với chế độ dinh dưỡng hợp lý, rèn luyên vận động thích hợp để bụng đừng béo sẽ hóa giải, triệt tiêu HCCH, giúp bảo vệ và tăng cường sức khỏe.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)